Nhớ hồi đó tôi được điều động đến tăng cường công tác ở một nơi xa nhà hơn năm mươi cây số.Lần đầu tiên phải nhận công tác ở miền sơn cước xa xôi,hẻo lánh,vùng mà trước đây được xem như vùng rừng thiêng nước độc,tôi thật bị động vô cùng.Cho dù cấp trên chưa đúng trong việc phân công,nhưng trước mắt phải nhận sự phân công cái đã,còn chuyện đúng sai tính sau.
Trước ngày chính thức nhận công tác,tôi đã tới nơi này quan sát,làm quen với đường đi nước bước ở một nơi mà mình chưa hề đặt chân đến;mà cũng là để tìm hiểu nhân tình ở đây và tìm cho mình một nơi trọ tương đối tin tưởng.
Trong lúc chạy xe dạo vòng quanh cách chỗ tôi sẽ công tác chừng hai cây số, tôi bỗng phát hiện một ngôi chùa.Lòng mừng khấp khởi, vì nghĩ chỉ có chùa là chốn an toàn và lý tưởng nhất để cho con người lần đầu tiên đến một nơi xa lạ không một người quen biết như tôi chọn làm chỗ dung thân.Nghĩ thế,nên tôi đánh bạo vào chùa xá sư trụ trì,kể rõ tình cảnh của mình,và xin được tá túc.Với tâm từ bi nhà Phật luôn thương xót ,mong muốn cứu vớt chúng sinh,sư trụ trì đã hoan hỷ cho tôi trọ tại chùa.Lòng vui mừng khôn xiết,tôi đảnh lễ sư tỏ lòng tri ân.
Ngôi chùa được xây dựng đơn sơ trên khu đất tương đối rộng với nhiều cây cối sầm uất,hơi cách xa khu dân cư.Nhìn ngôi chùa ẩn hiện sau những tán cây cổ thụ thấy toát lên vẻ thanh thoát, u trầm,tĩnh mịch,trang nghiêm,cổ kính làm cho ta có cảm giác bình yên,tạm quên đi bao nỗi muộn phiền,những vất vả, lo toan của cuộc sống thường ngày cứ luôn đè nặng tâm trí.
Trừ những ngày lễ,kỵ còn ngày thường,ban ngày chùa vắng lắm vì bà con bận đi làm,buổi tối thì có các cụ,các cô lớn tuổi đến tụng kinh một chút rồi về. Chùa chỉ còn lại một mình sư trụ trì thui thủi!
Tôi được sư cho trọ ở gác trống sấm.Cơm nước ăn chung với sư.Sau mỗi buổi làm về tôi nhận công việc quét dọn chùa,xách nước tưới mấy cây cảnh xung quanh.Còn sư thì kinh kệ công phu hai buổi sớm chiều.
Sau buổi cơm chiều hai thầy trò ngồi ở bàn nước bên hiên chùa hủ hỷ tâm sự chuyện đời,chuyện đạo,cùng ngắm cảnh núi rừng chìm dần trong tối.Trong đó có những câu chuyện thầy kể về lịch sử,địa lý, con người của vùng đất nơi đây.Mỗi câu chuyện đều gắn liền với bao điều linh thiêng bí ẩn,nhưng nó là sự thật đối với người dân nơi đây,nhất là bậc tiền nhân một thời có công “mở đất”.
Khi có công tác Phật sự ở xa,thầy thường vắng chùa cả mươi ngày nửa tháng.Mỗi lần như vậy,thầy có nhờ một bác Phật tử đến ngủ và công phu vào ban đêm.Còn tôi sau mỗi buổi đi làm về cũng một mình thui thủi! Trong những ngày thầy đi vắng còn lại một mình thơ thẩn vào ra,tôi thật sự thấy lòng cô đơn,trống vắng dành cho bao nỗi buồn,vui,giận,hờn,thương,nhớ cứ liên tục tràn về đầy,vơi.
Có những buổi chiều sau những cơn mưa dông,một mình ngồi nhìn dãy núi xa xa phía trước đã chuyển sang một màu xanh thẳm làm hiện rõ những luồng khí đang tung tăng uốn lượn bốc lên từ chân núi,những sợi khí bốc lên khi nhặt,khi khoan,khi mờ khi tỏ,khi tụ,khi tán tạo thành những hình thù mông lung,kỳ quái…,rồi cuối cùng kết thành một dải trắng đục bồng bềnh nơi lưng chừng núi.Người ta nói ở miền sơn cước nhiều khí núi,các hồn ma bóng quế thường hay nương tựa vào những dòng khí này mà hiện hình nên thường có nhiều ma quỷ lắm.Cách lý giải như thế nghĩ cũng có phần hữu lý.Vì hồn ma bóng quế suy cho cùng cũng là một dạng khí mà thôi.Nhớ có lần nhà văn Tchya cũng đã thấy nương theo luồng hơi đất sau một buổi chiều mưa là vong hồn hai anh em cụt đầu đang luyện võ với nhau trên đồi nương vắng.Thì bây giờ cũng biết đâu nương theo những luồng khí kia là những vong hồn,oan hồn của tiền nhân một thời đi “mở đất” phải đối mặt,chống chọi với bao gian lao nguy hiểm, đến nỗi phải bỏ mạng làm mồi cho hùm,beo, thú dữ,hay bởi độc tà sơn lâm chướng khí nơi nước độc,rừng thiêng. Để rồi vì lý do gì đó,họ không siêu thoát được mà cứ mãi vấn vương với núi rừng.
Chuyện cây ráy hấp thụ quái khí của núi rừng mà thành tinh giết chết không biết bao nhiêu người là một trong nhiều chuyện gắn liền với lịch sử khai phá vùng đất này, mà ngày nay thế hệ con cháu đều được nghe ông bà kể lại như là một điển hình cho muôn vàn sự kỳ bí nơi đây.
Mãi miên man với những dòng suy nghĩ mông lung mà màn đêm buông xuống lúc nào không hay cho đến khi mấy cụ đến tụng kinh thời Tịnh Độ mới chợt nhớ trời đã tối thui rồi.
Tụng kinh xong,các cụ,các bác ra ngoài uống nước chuyện trò.Tôi nhân thuận tiện nhắc lại câu chuyện cây ráy thành tinh mà sư trụ trì kể hôm trước.Trong đó có cụ bà trên 80 tuổi xác nhận về sự thực của câu chuyện này vì cụ là nhân chứng chứng kiến trong một quá trình dài lúc cây ráy còn gây chết chóc cho cư dân nơi đây cho đến lúc người Pháp điều động cả trung đội lính tới đây dùng đại bác triệt hạ mà nhưng không thành công… Tôi xin bà vui lòng kể lại câu chuyện.Bà vui vẻ nhận lời.Bà chậm rãi têm miếng trầu cho vào miệng nhai móm mém,rồi dõi mắt về một nơi xa xăm phía trước một hồi lâu dường như bà đang làm sống lại cái ký ức của một thời ở cái tuổi thanh xuân.Nhìn mái tóc bạc phơ, đôi mắt hơi mờ đục,những nếp thời gian chất chồng hằn sâu trên da mặt nhăn nheo khắc khổ cho ta cảm giác bà cụ là hình ảnh đại diện cho thế hệ tiền bối từng song pha,tranh đấu mưu cầu cuộc sống ở vùng đất này,là lớp người nhân chứng của bao biến thiên thời cuộc ở nơi đây.
Bà nhổ miếng trầu,lấy khăn lau vệt nước trầu hai khoé mép,rồi bà thong thả kể câu chuyện,vừa kể vừa dõi mắt xa xăm như để ký ức lần lượt hiện về,hiện về tiếp thêm câu chuyện.Mọi người ngồi chung quanh đều lặng yên chăm chú lắng nghe câu chuyện của bà,mặc dù ai cũng đã ít nhất một lần được nghe hoặc biết câu chuyện.Nhưng câu chuyện bà kể có sức lôi cuốn kỳ lạ, được sắp xếp có lớp lang,mạch lạc;vì như thế cũng có thể là những tình tiết trong câu chuyện có gắn liền với những thực tế mà bà đã tận chứng kiến.Trong cái không khí rờn rợn của câu chuyện kể,bỗng đâu một luồng gió núi lạnh ngắt thổi tới,cùng với tiếng éc,éc của con chim heo ma quái đang bay trên bầu trời đêm vắng lặng làm cho mọi người đều có cảm giác chung quanh toàn bao phủ bởi thế giới vô hình mà trong đó là những oan hồn,cô hồn là nạn nhân nơi nước độc rừng thiêng đang sinh hoạt theo cách riêng của họ,hay là đang lang thang, vất vưởng,hoặc hoà quyện với tà khí núi rừng thành một thứ ma chướng trở lại tác hoạ cho người còn sống!
Câu chuyện bà kể dài lắm,trong đó có xen lẫn những kỹ niệm riêng tư một thời của bà.Bây giờ tôi xin lược lại vắn tắc mong được hầu quý vị cùng các bạn.
Câu chuyện kể rằng: Ngày xưa vùng đất này là rừng hoang vắng lắm mọc phần lớn là cây dầu và toàn là dã thú.Rãi rác đó đây vài buôn Thượng,chứ chưa có người Kinh.Tới thời Pháp thuộc,người Pháp mở đường xe lửa đi qua vùng này,họ mới khai phá,xây dựng một nhà ga để làm nơi tiếp thêm nhiên liệu,cũng là để kiểm tra lại tàu trước khi leo đèo.Nên họ mới mộ nhân công người Việt tới đây làm cu li làm đường sắt hay làm phu chặt củi thước để chạy máy xe lửa.Biết nơi đây là nơi nước độc rừng thiêng,song vì phải mưu sinh nên người phải chấp nhận đến đây sinh cơ lập nghiệp.Khí hậu và nguồn nước độc địa lắm,ai vốn sức khoẻ yếu mà tới đây thì chẳng bao lâu cũng ngã gục vì bệnh chói nước,hay sốt rét rừng.Tuy vậy,song thiên nhiên vẫn có luật bù trừ của nó.Hễ có thế đánh,tất phải có thế giải.Chẳng hạn như lỡ bị phải rắn độc cắn ở một nơi nào đó,tất cây cỏ xung quanh đó có khả năng giải được nọc rắn. Ở đây cũng vậy,sơn lâm chướng khí gây ra cái bệnh sốt rét rừng nguy hiểm chết người, thì cây ráy tía mọc vô số theo hai bên mé nước nơi đây chính là liều linh dược cứu không biết bao nhiêu sinh mạng.Ngoài khả năng chữa bệnh sốt rét,thương hàn đại tài,cây ráy còn được dùng trong nhiều vấn đề trừ tà,sát quỷ nữa.Còn phép phòng bệnh chói nước:người ta chỉ đơn giản chọn một nơi đất sạch,đào lấy một cục đất bỏ vào lửa nung đỏ rồi nhúng vào một gáo nước,xong uống hết gáo nước đó thì sau này có thể tránh được bệnh chói nước.
Tuy cây ráy có công dụng chữa bệnh đại tài như thế nhưng càng ngày người ta càng thấy có nhiều người mắc bệnh sốt rét đã dùng cây ráy chữa trị mà không mang lại một chút hiệu quả nào.Hễ ai không may mắc phải bệnh là chỉ có con đường chết mà thôi,cho dù họ có điều trị bằng thuốc Tây thuốc Tàu gì đi nữa.Số người chết càng lúc càng đông đến nỗi người ta gần như không dám tiếp tục ở đây nữa.
Sau đó người ta mới phát hiện là những người sống dọc theo khúc sông đó mới mắc chứng bệnh sốt rét không chữa được này;còn những người sống xa hơn không dùng nước khúc sông đó thì dù có mắc bệnh cũng được chữa khỏi.Nghi ngờ dòng nước sông có độc tà,người Pháp mới cho các nhà bác vật đến phân chất nguồn nước thì cũng thấy chẳng khác gì hơn so với mẩu nước ở những nguồn khác chảy qua nơi đây.Dù vậy nhưng người ta vẫn hoài nghi về nguồn nước sông này.
Về sau người ta mới được các người dân tộc Thượng cho biết là trên đầu nguồn khúc sông này có một cây ráy cổ thụ thân to độ hai người ôm vì sống lâu năm do thụ nhiều tà khí của sơn lâm nên đã thành tinh làm hại chết rất nhiều người Thượng rồi.Cứ đến khoảng đầu tháng cây này còn có kinh kỳ làm đỏ cả một khúc sông,hễ ai dùng nước sông này vào những ngày cây ráy có kinh kỳ là bị bệnh chết ngay;không những có kinh kỳ, mà vào những ngày đó nó còn tiết ra khí độc nữa,người nào hít phải thì bị phù mình phù mẩy,khó thở mà chết.Trước đây có những buôn còn ở gần đó cứ ba đến năm năm phải làm lễ tế một trinh nữ mới được yên ổn.Bây giờ các buôn đã chuyển đi nơi khác xa hơn, không còn cúng tế nữa cho nên cây ráy mới tác quái hại người trở lại.
Mà thực vậy,cứ vào những ngày đầu tháng là người ta thấy nước sông có màu nhờ nhờ như huyết loãng trên một khúc dài chừng hơn ba cây số bắt đầu nơi cây ráy mọc.Còn khúc chỗ người ta ở thì nước không còn màu đỏ nữa,song vẫn còn độc. Biết cây ráy là thủ phạm hại chết người thân của mình,một số người quyết ra đi tiêu diệt cây ráy yêu tinh để trả thù.Nhưng tội nghiệp thay,họ một lần ra đi không bao giờ trở lại và không ai có thể biết tông tích họ nơi đâu.
Vì như vậy,người ta mới hiểu ra là tiêu diệt cây ráy không phải là chuyện dễ dàng gì.Nên họ mới bàn kế hoạch nhầm triệt hạ cây ráy yêu tinh như thế nào mà an toàn không tổn hao đến sinh mạng.
Kế hoạch được trù tính rất chu đáo.Họ tìm đến buôn Thượng bàn với các thầy mo về chuyện triệt hạ cây ráy bằng cách: trước khi chặt phá cây ráy,thầy mo giúp họ cúng tế cho cây ráy một lần cuối cùng để con Tinh trong cây ráy khi không còn chỗ trú ngụ thì trở lại rừng xanh có phẩm vật mang theo.Nhưng kỳ này thay trinh nữ bằng một con dê cái.Khi cúng xong thì nhờ mấy người đàn ông Thượng chặt dùm cây ráy.Nhưng thầy mo chỉ nhận công việc cúng tế chứ không dám cho người chặt cây,vì thầy mo sợ con tinh quay lại làm hại người của dân trong buôn.
Cuối cùng kế hoạch cũng được thực hiện,tuy nhiên những người chặt cây ráy là những người Kinh tình nguyện-những này đã có thân nhân chết vì chất độc cây ráy.
Đến ngày đã định,người ta chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng cả.Thầy mo đảm nhận công việc tế lễ cây ráy.Còn pháp sư người Kinh thì lập một pháp đàn quy mô làm phép.Vị pháp sư cũng trang bị cho tám người thanh niên tham gia chặt cây ráy rất là kỹ lưỡng:Mỗi người mặc một chiếc áo kiểu pháp sư,mặt trước và mặt sau chiếc áo có vẽ hai chữ sát quỷ to tướng,phần còn lại được vẽ rất nhiều chữ bùa ngoằn ngoèo,bùa bát quái,hình ông Tề Thiên cầm thiết bản múa…;đầu và tứ chi của họ, pháp sư còn cho quấn vải điều có đính ở mỗi chỗ ba đồng tiền cổ thuộc ba đời vua.
Khi thầy mo làm cúng tế xong,tám người đàn ông được lệnh của vị pháp sư tiến đến cây ráy “khai đao”.Nhưng khi “đao” mới chạm những nhát đầu tiên vào thân cây thì tự nhiên toàn thân cây ráy bắt đầu chuyển động càng lúc càng mạnh,càng dữ dội hơn.Nhiều người đi xem thấy hiện tượng quái lạ như thế thì không dám xem nữa mà lật bỏ chạy trối chết.Cùng lúc đó bỗng đâu một trận cuồng phong đen ngòm không biết từ đâu kéo tới ầm ầm,lúc đầu chuyển động dữ dội trên không trung các cành cây nơi trận cuồng phong đi qua bị bẽ gãy kêu răng rắc, đổ xuống rầm rầm.Thấy tình thế quá nguy cấp,vị thầy mo,vị pháp sư,cùng tám chàng “đao phủ”toan bỏ của chạy lấy người.Nhưng không còn kịp nữa rồi,trận cuồng phong bắt đầu hạ xuống xô những người hiếu kỳ ngã rạp xuống,rồi xoáy mấy vòng,cây cối ngã đổ rào rào…một lát sau trận cuồng phong tan đi đi đâu mất.Thấy yên tỉnh trở lại,mấy người bị trận gió xô ngã hồi nãy mới kịp hoàn hồn thì thấy cây ráy còn đứng y nguyên,mà vị thầy mo,vị pháp sư,và tám người kia cùng lễ vật,pháp đàn thì không còn thấy đâu nữa.
Mấy ngày sau,có người thấy xác vị thầy mo,vị pháp sư và tám người kia nằm chồng một đống nát nhừ ở một nơi cách chỗ làm phép hôm trước rất xa.
Như thế là kế hoạch tiêu diệt cây ráy không thành mà còn thiệt hại thêm về nhân mạng nữa.Chuyện cây ráy thành tinh không ai có thể diệt được lập tức được theo các chuyến xe lửa lan đi khắp nơi rất nhanh làm mọi người hiếu kỳ đáp xe lửa đến đây ngày một đông để được thấy cây ráy tận mắt.
Việc này làm cho chính phủ Pháp lo ngại.Vì họ rất sợ tụ tập đông đảo để chống lại họ;với lại họ không ưa chuyện ma quái,khi vừa đặt bộ máy thực dân cai trị ở Việt Nam họ lập tức cấm các trò chơi huyền bí thịnh hành trong dân chúng thời đó như:trò chơi sai roi,sai quạt,sai vung, đánh đồng thiếp cho người dương gian gặp người âm phủ.v.v…Nếu để các trò đó tồn tại thì họ khó lòng truyền đạo Thiên Chúa!Bởi thế,họ quyết định dùng vũ khí tiêu diệt cây ráy;một là để giải tán những đám đông hiếu kỳ,và cũng là để giữ chân người làm thuê cho họ ở đây.
Một ngày nọ,họ kéo đến đây một trung đội lính,một khẩu đại bác cùng súng ống to nhỏ đủ loại.Họ lên phương án “tác xạ”rất kỹ lưỡng.Họ còn lên phương án tháo chạy phòng hờ khi trận cuồng phong thình lình kéo tới.Mọi thứ chuẩn bị xong xuôi,tới giờ “ khai hoả”,một tiếng nổ vang động núi rừng, quả pháo đầu tiên bay vọt ra khỏi nòng súng rồi rơi xuống nghe…cái bịch, như ai đứng trên cao ném cục đá ba lông xuống vậy.Họ bắn tiếp quả thứ hai,quả này rơi đúng mục tiêu… nổ tung,nhưng chưa suy suyễn gì cây ráy,chỉ làm xây xát sơ sơ lớp vỏ bên ngoài.Tuy nhiên người ta cũng thấy những dòng nước đỏ túa ra từ thân cây ráy.Rồi tiếp là tiếng nổ long trời của quả pháo thứ ba,người ta kịp thấy cây ráy rướng lên một cái rồi ngã bật ra,từ phần gốc còn dưới mặt đất phụt lên ba vòi nước màu đỏ trông như máu tươi cao chừng một thước,rồi sau đó thấp dần,thấp dần cho đến khi chỉ còn tứa ra trên bề mặt của gốc cây.Dòng nước đỏ chảy ra từ thân và gốc cây ráy là đỏ cả một khúc sông, loang dài bốn năm cây số. Cây ráy ngã rồi,tưởng đã yên,họ cho rút quân đem vũ khí về.Nhưng thực tế thì trái lại:Từ khi cây Ráy ngã,nước sông vẫn đỏ ngầu liên tục,không ai dám dùng.Còn quanh vùng nơi đây luôn xảy ra những hiện tượng bất thường ma quái.Tự nhiên những vật nuôi như gà vịt,heo gà,mèo chó lăn ra chết một cách quái lạ:con nào khi chết, máu từ trong họng cứ chảy ra, đầu dường như bị bẽ quẹo ra sau.Có người còn nói là vào những đêm khuya họ còn thấy có nhiều người từng đoàn,từng đoàn dắt díu nhau đi trông họ khổ sở, đói khác,rách rưới,bẩn thiểu lắm;lớn có,nhỏ có,già có,trẻ có-người cụt đầu,kẻ cụt chân,cụt tay đủ hết.Người ta cho rằng đó là những ma thương,ma đói,là những cô hồn,oan hồn đã bỏ mạng nơi đây vì nhiều lý do như bệnh hoạn,tai nạn cây ngã, đá đè…Những cô hồn,oan hồn đó có lẽ một thời đã bị con tinh trú trong cây ráy ràng buộc,chi phối nên không thể siêu thoát được.Bây giờ con tinh không còn lãnh địa nữa,mất khả năng chi phối họ nên họ mới được thoát khỏi sự kiểm soát của con tinh mà lang thang tìm nơi nương tựa.Trong đó có những người hiểu biết ít nhiều về vấn đề bùa phép,luyện ngãi, âm binh cho biết:những cô hồn,vong hồn này mà bị ai đó thu phục luyện thành âm binh thì họ sẽ trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho người đó.Họ sẽ làm bất cứ chuyện gì theo sự sai khiến của anh ta,ngay đến chuyện hại người họ cũng không từ nan!Do vậy nên phải lập tức làm cho họ sớm không lọt vào tay những tên pháp sư bất lương, để tránh hậu quả khó lường.
Mọi người bàn với nhau định nhờ thầy chùa đến siêu độ cho họ được siêu thoát.Nhưng có người bàn thêm,nếu chỉ thỉnh thầy chùa thì không thể giải quyết dứt điểm cây ráy cho nên cần phải thỉnh pháp sư phối hợp với thầy chùa để giải quyết cho ổn thoả đôi đường. Ý kiến đó liền được chấp thuận.Họ cho người rành đường đi nước bước vào tận tới miệt thất sơn,tà lơn,núi cấm để thỉnh cho được một vị pháp sư và một vị cao tăng phật giáo.Họ phải băng rừng leo núi cực kỳ gian nan vất vả để đến được nơi các vị sư đang trụ tu.Trời không phụ lòng người hữu tâm,mà có lẽ cũng do người dân ở đây trả xong nghiệp dữ rồi.Nên họ mới có duyên lành gặp và thỉnh được hai vị đắc đạo phép thuật cao cường.
Đến nơi hai vị cho lập một đàn tràng để kỳ siêu bạc độ cho các vong hồn,oan hồn, và một pháp đàn để làm pháp ngũ lôi thần chưởng.Hai đàn được thiết lập rất kỹ lưỡng bằng tất cả bản lĩnh của hai vị sư đắc đạo, đắc thần thông.
Từ giờ Dậu chiều hôm đó,hai vị sư bắt đầu đăng đàn tác pháp, đến đầu giờ Tý thì người ta thấy gió thổi ào ào,mây đen kéo tới cuồn cuộn đen kịt bầu trời,rồi sấm nổ ầm ầm,chớp nháy liên hồi soi sáng liên tục một vùng núi rừng.Sau một tiếng sét khởi điểm,mưa bắt đầu tuôn xối xả,mưa như trút nước trong tiếng sấm chớp không dứt.Mưa kéo dài đến giữa giờ Tý thì một tiếng sét đinh tai,buốt óc,chấn động núi rừng,tiếng sét to gấp mấy lần tiếng sét lúc đầu,mưa nhỏ dần rồi dừng hẳn,trời quang mây tạnh trở lại.
Sáng sớm người ta kéo nhau tới chỗ dựng đàn chiều hôm qua thì mọi người kinh ngạc vì không thấy bóng dáng hai vị sư đâu cả và cũng chẳng còn gì dấu vết của hai đàn.Có người cho rằng do mưa hồi hôm to quá nên nước lũ đã cuốn trôi đi tất cả.Họ dẫn nhau tới chỗ cây ráy thì mọi người đều không khỏi ngạc nhiên khi thấy toàn bộ gốc rễ cây ráy bị cháy đen nằm phơi một đống chình ình trên mặt đất,chỗ gốc cây mọc là một hố sâu hun hút, đường kính mấy sải tay, đất nám đen thui;còn nước sông thì không còn đỏ ngầu nữa.Nhìn thấy cảnh tượng trên,mọi người đều vui mừng khôn xiết.Lúc này họ đều tin rằng tiếng sét hồi hôm đã đánh bật gốc ráy,và mưa thật lớn để cuốn trôi những độc địa…;còn hai vị sư đã vận thần thông trở về lại núi tu hành.Nghĩ như vậy nên mọi người đều quỳ xuống hướng mặt về núi cấm khấu đầu lạy tạ hai vị sư đắc đạo.
Câu chuyện bà kể tới đây thì trời đã khuya rồi,cảnh vật bên ngoài như chìm trong lớp sương mù dầy đặc,không gian miền sơn cước yên ắng như vốn dĩ của nó,chỉ có tiếng suối chảy rào rào ở sau chùa,và thỉnh thoảng con chim rừng ăn đêm bay qua kêu quát quát làm xé tan vùng không gian tĩnh lặng của trời đêm.
Tới lúc mọi người phải ra về,tôi theo tiển ra tới tận cổng chùa.Mới dợm bước quay vào thì tôi bỗng thấy từ hướng đông bắc xuất hiện năm khối cầu sáng nối đuôi nhau bay chầm chậm về hướng tây nam.Khi năm khối cầu bay ngang trên đầu,tôi mới kịp thấy rõ:khối cầu đầu tiên to bằng cái tô lớn,còn các khối phía sau cứ nhỏ dần theo một tỷ lệ nhất định.Có điều đặc biệt là các khối cầu đều sáng với những màu hơi khác nhau,sáng như kiểu sáng của chất lân tinh,chứ không phát ra tia sáng chiếu rọi.Lúc này tôi thấy các vị phật tử ban nãy cứ hướng theo mấy khối sáng đó mà quỳ lạy không biết bao nhiêu lạy mà tính,chờ cho tới khi các khối sáng khuất dạng rồi sau đó nghe một tiếng ầm thì mới thôi.Tôi hỏi các vị các khối cầu đó là gì,các vị cho tôi biết đó là năm bà ngũ hành giáng hạ vào miếu. Ở đây bà thường giáng hạ về lắm,một năm các bà giáng về hai ba lần.Các vị còn nói:tôi là người từ xa mới tới,có duyên lắm mới thấy được bà giáng hạ.Nghe nói thế,lòng tôi thấy vui vui.